Thực đơn
Vua La Mã Đức Các vị vua cai trị Đế quốcKể từ sự đăng quang của Charlemagne vào Giáng Sinh năm 800, mặc nhiên xuất hiện một chức vị Hoàng đế được xem là cao hơn tất cả các nhà cai trị trên toàn Tây Âu. Người ta thừa nhận một quy tắc rằng, chức vị này không thể tách rời khỏi vai trò người bảo vệ Giáo hội Công giáo và mang tính thiêng liêng bởi sự tấn phong của Giáo hoàng, và do đó việc đăng quang ở Roma là bắt buộc để nhận danh hiệu hoàng đế. Tuy nhiên, thật khó khăn để cho một vị vua được bầu lên làm Hoàng đế có để tới Roma ngay lập tức để đăng quang. Giữa việc đắc cử và đăng quang có thể kéo dài vài năm; thậm chí vài vị vua chưa bao giờ đến được Roma cả.
Do đó cần một danh hiệu nào đó cho vị vua trong những năm trống đó, thích hợp cho vị thế của vị vua được bầu cũng như đảm bảo cho ông sẽ được bầu làm Hoàng đế trong tương lai, trong khi không vi phạm nguyên tắc Giáo hoàng tấn phong. Danh hiệu Quốc vương của người La Mã (Romanorum Rex) đôi khi được sử dụng bởi các quân chủ nhà Otto và đặc biệt bởi Hoàng đế Heinrich II để nhấn mạnh sự kế thừa Đế quốc La Mã thời cổ đại của Thánh chế La Mã, điều này luôn bị Đế chế Byzantine từ chối thừa nhận.
Quốc vương của người La Mã trở thành danh hiệu chính thức trong thời kỳ 1056-1084, khi Hoàng đế Heinrich IV, được bầu thành người cai trị Đế quốc, và Giáo hoàng Grêgôriô VII áp đặt danh hiệu Quốc vương của người Đức (Teutonicorum Rex) để nhắc nhở rằng quyền lực của Heinrich chỉ có tính chất địa phương mà không bao trùm Đế quốc. Để đáp lại, Heinrich bắt đầu thường xuyên sử dụng Vương hiệu Romanorum Rex cho tới lúc đăng quang năm 1084. Những người kế vị về sau tiếp nối cách thức này.
Ứng viên là những người đứng đầu các Đại công quốc ở Đức, nhưng về sau nguyên tắc này bị giảm trừ (đã có các vương hầu ở các lãnh địa nhỏ và kể cả người nước ngoài đã từng đắc cử), chỉ còn lại điều kiện phải là đàn ông trưởng thành, theo Công giáo chính thống, và không nắm giữ chức vụ tôn giáo.
Ngôi vị được bầu bởi một hội đồng quý tộc Đức, được gọi là Tuyển hầu tước. Cuộc bầu chọn thông thường diễn ra ở Frankfurt. Vị tân vương đăng quang là Quốc vương của người La Mã sau đó ở Aachen.
Theo nghi thức, nhà vua có thể băng qua dãy Anpơ, tới Pavia hoặc Milan để nhận Vương miện Sắt của Lombardy để trở thành Quốc vương nước Ý. Cuối cùng, vị vua đó cần tới Roma được tuyên bố là Hoàng đế bởi Giáo hoàng. Không phải tất cả các Quốc vương của người La Mã đều tiến hành các bước trên, đôi khi bởi vì quan hệ thù nghịch với Giáo hoàng đương thời, khi khác vì gánh nặng tài chính cho một chuyến đi Roma, hoặc tình trạng chiến tranh ở Đức hoặc Italia ngăn cản điều đó. Trong những trường hợp như vậy, nhà vua giữ danh hiệu Quốc vương của người La Mã trong suốt thời trị vì của mình.
Danh hiệu Quốc vương của người La Mã không còn dùng để chỉ người đứng đầu Đế quốc kể từ năm 1507, khi sau một dự định đi tới Roma bất thành, Hoàng đế Maximilian I được Giáo hoàng trao cho danh hiệu "Hoàng đế được bầu của người La Mã" (Electus Romanorum Imperator). Maximilian cũng nhân dịp này tự xưng danh hiệu mới, Quốc vương nước Đức (King in Germany; Germaniae Rex) nhưng không bao giờ dùng như danh hiệu chính.
Các nhà cai trị Đế quốc từ đó tự gọi mình là Hoàng đế mà không cần phải đi tới Roma hay xin sự ủng hộ của Giáo hoàng, ngay khi họ đăng quang ở Đức hay ngay sau Hoàng đế tiền nhiệm băng hà. Chỉ có một vị duy nhất, Charles Quint là được Giáo hoàng tấn phong.
Dưới đây là những vị Quốc vương của người La Mã đã cai trị Đế quốc mà không dưới quyền một ai cả, nhưng chưa được đăng quang là Hoàng đế.
Nhà vua | Trở thành Vua | Ngừng làm vua | Khác | |
---|---|---|---|---|
Ngày | Lý do | |||
Otto III | 983 | 996 | đã đăng quang Hoàng đế | |
Heinrich II | 1002 | 1014 | đã đăng quang Hoàng đế | |
Konrad II | 1024 | 1027 | đã đăng quang Hoàng đế | |
Heinrich III | 1039 | 1046 | đã đăng quang Hoàng đế | |
Heinrich IV | 1056 | 1084 | đã đăng quang Hoàng đế | |
Rudolf | 25 Tháng Năm 1077 | 15 Oct 1080 | chết | Vua đối lập |
Hermann | 6 tháng Tám 1081 | 28 tháng Chín 1088 | chết | Vua đối lập |
Heinrich V | 1105 | 1106 | đối lập với Heinrich IV | |
1106 | 1111 | đã đăng quang Hoàng đế | ||
Lothair III | 1125 | 1133 | đã đăng quang Hoàng đế | |
Konrad III | 1127 | 1135 | đối lập với Lothair | |
1138 | 1152 | chết | ||
Frederick I | 1152 | 1155 | đã đăng quang Hoàng đế | |
Heinrich VI | 1190 | 1191 | đã đăng quang Hoàng đế | |
Frederick II | 1197 | 1197 | thoái vị | |
Philip | 1198 | 1208 | chết | |
Otto IV | 1198 | 1208 | đối lập với Philip | |
1208 | 1209 | đã đăng quang Hoàng đế | ||
Frederick II | 1212 | 1220 | đã đăng quang Hoàng đế | |
Heinrich Raspe | 22 Tháng Năm 1246 | 16 Tháng Hai 1247 | chết | Vua đối lập |
William của Holland | 1247 | 28 Tháng Một 1256 | chết | Vua đối lập |
Konrad IV | 1250 | 1254 | chết | |
Richard của Cornwall | 1257 | 1272 | chưa bao giờ là người cai trị thực sự của Đức | |
Alfonso của Castile | 1257 | 1275 | Vua đối lập với người trên, chưa bao giờ là người cai trị thực sự của Đức | |
Rudolph I | 1273 | 1291 | chết | |
Adolph | 1292 | 1298 | bị phế truất và bị giết | |
Albert I | 1298 | 1308 | chết | |
Heinrich VII | 1308 | 1312 | đã đăng quang Hoàng đế | |
Frederick Công bằng | 1314 | 1322 | đối lập với Louis IV | |
1326 | 1330 | đồng thời với Louis IV | ||
Louis IV | 1314 | 1328 | đã đăng quang Hoàng đế | |
Karl IV | 1346 | 1347 | đối lập với Louis V | |
1347 | 1355 | đã đăng quang Hoàng đế | ||
Wenceslaus | 1378 | 1400 | bị phế truất | |
Rupert | 1400 | 1410 | chết | |
Jobst của Moravia | 1410 | 1411 | chết | đối lập với Sigismund |
Sigismund | 1410 | 1411 | bầu lần hai | đối lập với Jobst |
1411 | 1433 | đã đăng quang Hoàng đế | ||
Albert II | 1438 | 1439 | chết | |
Frederick III | 1440 | 1452 | đã đăng quang Hoàng đế | |
Maximilian I | 1493 | 1508 | được thừa nhận danh hiệu Hoàng đế |
Thực đơn
Vua La Mã Đức Các vị vua cai trị Đế quốcLiên quan
Vua Vua Việt Nam Vua tiếng Việt Vua Arthur Vua sư tử (phim 2019) Vua đầu bếp: MasterChef Vietnam (mùa 1) Vua đầu bếp Úc Vua đầu bếp: MasterChef Vietnam (mùa 3) Vua đầu bếp: MasterChef Vietnam (mùa 2) Vua MèoTài liệu tham khảo
WikiPedia: Vua La Mã Đức